
Lầu Hoàng Hạc ở phía tây nam thành Vũ Xương nay thuộc tỉnh Hồ Bắc.
黃 鶴 樓
Hoàng Hạc Lâu
崔 顥
Thôi Hiệu
昔 人 已 乘 黃 鶴 去
Tích nhân dĩ thừa hoàng hạc khứ
此 地 空 餘 黃 鶴 樓
Thử địa không dư Hoàng Hạc Lâu
黃 鶴 一 去 不 復 返
Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản
白 雲 千 載 空 悠 悠
Bạch vân thiên tải không du du
晴 川 歷 歷 漢 陽 樹
Tình xuyên lịch lịch Hán Dương thụ
芳 草 萋 萋 鸚 鵡 洲
Phương thảo thê thê Anh Vũ châu
日 暮 鄉 關 何 處 是
Nhật mộ hương quan hà xứ thị
煙 波 江 上 使 人 愁
Yên ba giang thượng sử nhân sầu
Chú thích: 1/ Hoàng hạc lâu, tên lầu, ở huyện Vũ Xương, bên bờ nam sông Trường Giang. tỉnh Hồ Bắc. 2/ Hán Dương, tên huyện , bên bờ bắc sông Trường giang, tỉnh Hồ Bắc. 3/ Anh Vũ châu, tên bãi sông trong huyện Hán Dương. 4/ Ngày nay, ba huyện Vũ Xương, HánDương và Hán Khẩu hợp thành thành phố Vũ Hán, thuộc tỉnh Hồ Bắc.
Dịch nghĩa:
Lầu Hoàng Hạc
Người xưa đã cưỡi hạc vàng bay đi, để trơ lại cái lầu Hoàng Hạc này. Hạc vàng một lần bay đi không trở lại ; nhưng mây trắng ngàn năm vẫn bay trên không trung bao la. Hàng cây bên bờ sông tạnh ráo vùng Hán Dương thấy rõ ; cỏ thơm trên bãi Anh Vũ tốt tươi. Trời đã về chiều, [khách xa nhà tự hỏi] quê nhà ở nơi đâu? Trên sông nhìn khói sóng mà cảm thấy buồn.
Bản dịch của Nguyễn Minh
Người xưa đã cưỡi hạc vàng bay mất
Để tòa nhà nay gọi Hoàng Hạc Lâu
Hạc bay đi mãi mãi chẳng quay đầu
Mây trắng vẫn ngàn năm bay lờ lững
Bờ sông mát Hán Dương cây còn đứng
Cỏ thơm xanh bãi Anh Vũ khoe màu
Trời chiều rồi quê cũ vọng về đâu
Trên sông nước khói sóng mờ buồn quá
Bản dịch của Nguyễn Minh
Người xưa đã cưỡi hạc bay đi
Hoàng Hạc lầu hoang trơ chốn này
Khuất nẻo hạc vàng không trở lại
Ngàn năm mây trắng vẫn cao bay
Hán Dương sông tạnh nom cây rõ
Anh Vũ bãi thơm lớp cỏ dầy
Chiều tới quê nhà đâu hướng ngóng
Trên sông khói sóng mắt sầu cay
Bài dịch của Thủy Trang
Người xưa cưỡi hạc vắng từ lâu
chốn cũ lầu xưa mặc dãi dầu
cánh hạc vàng bay không trở lại
mây còn trắng mãi biết về đâu
hàng cây rỏ nét bờ Dương Hán
bãi cỏ xanh Anh Vũ đẹp mầu
chợt nhớ quê nhà chiều nắng tắt
trên sông khói sóng ngẩn ngơ sầu